5 thg 6, 2012
Ngày 4/6, tại TP Hồ Chí Minh, Thường trực Ban Bí thư Lê Hồng Anh, Uỷ viên Bộ Chính trị và Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh Lê Thanh Hải, Ủy viên Bộ Chính trị đã chủ trì Hội nghị tổng kết Nghị quyết số 53 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ và Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
![]() |
Đồng chí Lê Thanh Hải cùng đồng chí Lê Hồng Anh tại Hội nghị. |
Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Văn Ninh và đại diện các Bộ, ngành Trung ương, lãnh đạo các tỉnh, thành trong vùng cùng tham dự.
Báo cáo đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết 53-NQ/TW của Bộ Chính trị và các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước cho thấy Đông Nam Bộ và Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã có bước phát triển tích cực trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Các tỉnh, thành phố trong vùng đã duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, vượt trội so với mức bình quân chung cả nước. Cơ cấu kinh tế của vùng chuyển dịch nhanh, hợp lý theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, (năm 2010, cơ cấu nông nghiệp, công nghiệp – xây dựng và dịch vụ của vùng kinh tế trọng điểm là 8,1%; 51,5% và 40,4%).
Giai đoạn 2006 – 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế của toàn vùng đạt 11%/năm (bình quân cả nước đạt 7%/năm); tổng GDP năm 2010 của vùng gấp 2,93 lần so với năm 2000 (mục tiêu đặt ra gấp 2,5 lần); thu nhập bình quân đầu người năm 2010 đạt 48,6 triệu đồng (bình quân cả nước là 22,8 triệu đồng); thu ngân sách nhà nước tăng bình quân 16,8%/năm (chiếm 64% tổng thu của cả nước); tổng vốn đầu tư phát triển xã hội tăng bình quân 22,6%/năm; đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn dẫn đầu cả nước, tính đến tháng 6/2011 có 7.940 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư đăng ký gần 95 tỷ USD.
Trong 5 năm qua, các địa phương trong vùng tiếp tục phát triển một số ngành công nghiệp chủ lực như: Điện – điện tử; khai thác dầu khí, sản suất điện, phân bón, hóa chất, công nghiệp dược phẩm; công nghệ thông tin, phần mềm; cơ khí chế tạo; công nghiệp chế biến; may mặc… đã góp phần giải quyết việc làm cho số lượng lớn lao động trong và ngoài vùng. Bước đầu đã có sự chuyển dần sang các ngành công nghiệp có công nghệ và kỹ thuật cao, giá trị gia tăng lớn, tham gia tích cực vào mạng lưới sản suất của khu vực và thế giới.
Hệ thống kết cấu hạ tầng được trú trọng phát triển và mở rộng, nhiều công trình hạ tầng giao thông quan trọng liên vùng và cả nước đã được đầu tư mới và nâng cấp như đường cao tốc TP Hồ Chí Minh – Trung Lương; TP Hồ Chí Minh – Long Thành – Dầu Giây; Bến Lức – Long Thành; Dầu Giây – Phan Thiết; quốc lộ 1; quốc lộ 50, quốc lộ 55; cảng Quốc tế Cái Mép; nhà ga T2 Tân Sơn Nhất…
Phát biểu tại hội nghị, đồng chí Lê Hồng Anh cho rằng Nghị quyết 53-NQ/TW của Bộ Chính trị đã được các tỉnh, thành trong vùng tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc, từng bước đi vào cuộc sống và đã đạt được những kết quả quan trọng.
Theo đồng chí Lê Hồng Anh, giai đoạn 2006 – 2010 là giai đoạn có nhiều khó khăn nhưng các tỉnh, thành phố trong vùng đã thực hiện đạt và vượt nhiều mục tiêu nêu trong nghị quyết, kinh tế phát triển nhanh và đúng hướng. Đời sống văn hóa – xã hội được nâng cao. Chính trị, xã hội ổn định, anh ninh, quốc phòng được giữ vững.
Đồng chí Lê Hồng Anh đề nghị các tỉnh, thành phố trong vùng cần tiếp tục quán triệt những quan điểm cơ bản và thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp đã nêu tại Nghị quyết 53-NQ/TW của Bộ Chính trị, tiếp tục khẳng định vai trò vùng kinh tế động lực, chủ động khai thác tối đa những lợi thế, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để phát triển. Tập trung hoàn thành việc xây dựng và phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội của vùng đến năm 2020; tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, ban hành đồng bộ các cơ chế, chính sách để thực hiện tốt Nghị quyết 53-NQ/TW của Bộ Chính trị; tăng cường vai trò chỉ đạo, điều hành của Chính phủ đối với vùng.
Theo (VGP)
5 thg 6, 2012 0
29 thg 5, 2012
“Lãnh đạo cấp trên không biết còn ra quyết định bổ nhiệm là không trên cơ sở thực tiễn; bổ nhiệm một người lãnh đạo công ty làm ăn thua lỗ lên một vị trí rất quan trọng như vậy thì đó là sự quan liêu”.
“Nói không có sai phạm là không đúng”
Chiều ngày 27/5, tại phiên Họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 5/2012, trả lời báo chí về vụ bê bối tại Vinalines, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam nói rõ: “Việc để ông Dương Chí Dũng thôi giữ chức Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam và bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục Hàng hải là đúng thẩm quyền, đúng quy trình theo quy định về công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước…”.
Trao đổi với phóng viên Báo Giáo dục Việt Nam, Trung tướng Nguyễn Quốc Thước – Nguyên ủy viên Trung ương Đảng, Đại biểu Quốc hội khóa 8, 9, 10 đã nói: “Tôi nghe Bộ trưởng Vũ Đức Đam nói việc bổ nhiệm ông Dương Chí Dũng là làm đúng quy trình. Làm đúng quy trình nghĩa là sao?
![]() | ||
|
Ông Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ nói là lúc đưa lên chưa phát hiện cái sai phạm thì đó là cái lỗi của người bổ nhiệm. Trước lúc anh bổ nhiệm một người vào vị trí quan trọng thì anh phải biết anh ta như thế nào chứ?
Cũng giống như vụ Tiên Lãng, quy trình tổ chức cưỡng chế là đúng nhưng sản phẩm của quy trình đó là dân thì đi tù, cán bộ thì bị thương thế thì quy trình đó là tốt hay là xấu? Quy trình chỉ mang tính hình thức hành chính. Thế còn nội dung thì sao? Cái gốc của vấn đề anh không nắm được”.
Trung tướng Thước nói tiếp: “Vụ này mà nói không có sai phạm là hoàn toàn không đúng. Đúng là không sai phạm về quy trình nhưng con người anh Dương Chí Dũng không phải lúc lên Cục trưởng mới sai mà trước đó đã sai. Những sai phạm rất nghiêm trọng đã xuất hiện từ thời anh này còn làm chủ tịch Hội đồng thành viên của Vinalines.
Vậy mà lãnh đạo cấp trên không biết còn ra quyết định bổ nhiệm là không trên cơ sở thực tiễn; bổ nhiệm một người lãnh đạo công ty làm ăn thua lỗ lên một vị trí rất quan trọng như vậy thì đó là sự quan liêu. Trách nhiệm của lãnh đạo là ở chỗ đó. Mà người có quyền để quyết định một sự lựa chọn nhân lực như vậy phải hoàn toàn chịu trách nhiệm”.
![]() | ||
|
Khi được hỏi về việc đã có trường hợp nào trước đây tương tự như vụ bê bối tại Vinalines hay chưa, ông Thước cho biết: “Nhắc tới những sai phạm của Dương Chí Dũng tôi nhớ đến vụ việc của Lã Thị Kim Oanh trước đây. Tôi rất khâm phục ông Lê Huy Ngọ – Nguyên Bộ trưởng bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn ngày ấy.
Dù vụ án của Lã Thị Kim Oanh không có lỗi trực tiếp của ông Ngọ nhưng ông ấy vẫn đứng ra chịu trách nhiệm và xin từ chức. Nhớ ngày còn tại vị Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, những thời điểm có bão lụt, ông ấy đã xắn quần lên giống như một ông nông dân không giầy dép lội đi thực tế để nắm tình hình và có những chỉ đạo kịp thời. Đến giờ tôi vẫn quý ông ấy. Đó là con người sát với dân, sát với thực tiễn, chỉ làm những điều có lợi cho dân”.
“Ngẫm lại cách dùng người của Bác Hồ”
Nói về công tác cán bộ, Trung tướng Thước cho biết: “Qua vụ việc bổ nhiệm ông Dương Chí Dũng, tôi lại ngẫm tới cách dùng người của Hồ Chủ tịch. Người đã “soi” hết tất cả không phải chỉ riêng ông Giáp (Đại tướng Võ Nguyên Giáp – PV) mà còn nhiều người khác thân cận với Bác. Những người đó là ông Phạm Văn Đồng, ông Nguyễn Chí Thanh, ông Trường Chinh, ông Hoàng Quốc Việt…
Cái tài của người đứng đầu là biết được cán bộ. Bác đã từng nói việc sử dụng cán bộ cũng như sử dụng một khúc gỗ, hình dáng như thế nào thì phải tận dụng để làm ra một sản phẩm phù hợp. Nếu một khúc gỗ phù hợp làm vật này mà lại cố làm vật khác thì cũng hỏng. Nói điều đó để thấy đó là cái tài của Hồ Chủ tịch. Bác đã tạo được một đội ngũ cán bộ quanh mình tuyệt vời.
Tôi còn nhớ lúc Bác đi công tác, Bác đã giao cho cụ Huỳnh Thúc Kháng thay mặt Bác điều hành đất nước. Bác dám sử dụng một con người ngoài Đảng trong khi đó còn có nhiều Đảng viên kỳ cựu. Và cụ Huỳnh Thúc Kháng đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Bác tài là như vậy.
Lúc tổng kết Đại hội VI, đồng chí Trường Chinh cũng đã nói: Nguyên nhân của mọi nguyên nhân của các khuyết điểm đó là công tác tổ chức cán bộ. Tổ chức cán bộ hỏng thì khó mà có được đội ngũ cán bộ tốt. Cho nên nói học tập Bác Hồ, theo tôi, các vị lãnh đạo phải học tập trước tiên là cách sử dụng người của Bác”.
HỒNG CHÍNH QUANG (GIÁO DỤC VIỆT NAM)
29 thg 5, 2012 0
Chiều qua (28-5), tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã tiếp các đại sứ Iran, Mô Dăm Bích, Grudia, Êritơria, Êtiôpia đến trình quốc thư nhận nhiệm vụ công tác mới tại Việt Nam.
* Tại buổi tiếp đại sứ Iran, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhiệt liệt chào mừng ngài đại sứ nhận nhiệm vụ công tác tại Việt Nam và khẳng định Việt Nam và Iran có mối quan hệ tốt đẹp trong thời gian qua, trong chính sách đối ngoại Việt Nam luôn coi trọng phát triển quan hệ với các nước trong đó có Iran. Chủ tịch nước cảm ơn sự giúp đỡ của Iran đối với Việt Nam trong những năm qua và tin tưởng hai bên sẽ tiếp tục ủng hộ lẫn nhau trên các diễn đàn khu vực và quốc tế.
* Tiếp đại sứ Mô Dăm Bích, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hoan nghênh ngài đại sứ lần đầu tiên nhận công tác tại Việt Nam. Đây là sự kiện lịch sử đánh dấu mối quan hệ tốt đẹp giữa 2 nước. Chủ tịch nước khẳng định mối quan hệ hữu nghị truyền thống, hai bên đã có sự ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau trong những năm kháng chiến trước đây và trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay. Việt Nam sẵn sàng mở rộng hợp tác trên tất cả các lĩnh vực với Mô Dăm Bích cũng như trên các diễn đàn khu vực và quốc tế. Chủ tịch nước mong muốn trong nhiệm kỳ công tác tại Việt Nam lần này, ngài đại sứ sẽ thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ hợp tác giữa 2 nước.
* Chào mừng ngài đại sứ Grudia Mamuka Gamkrelidze nhận công tác tại Việt Nam, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhấn mạnh mối quan hệ truyền thống giữa 2 nước, cảm ơn sự giúp đỡ của Grudia trong những năm đấu tranh giành độc lập trước đây và tin tưởng sẽ có bước phát triển mạnh mẽ hơn trong quan hệ giữa 2 nước.
![]() | ||
|
* Tiếp đại sứ Êtiôpia ngài Xây-ôm Mét-phim, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhiệt liệt chào mừng ngài đại sứ nhận nhiệm vụ tại Việt Nam. Chủ tịch nước nhấn mạnh mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước trong suốt 40 năm qua nhưng cho rằng, quan hệ kinh tế thương mại chưa tương xứng với tiềm năng của hai nước. Hai bên cần xây dựng quy chế phối hợp, nâng cao hơn nữa nhiệm vụ của Ủy ban hợp tác liên chính phủ, rà soát lại các hiệp định, nghị định thư để thúc đẩy hợp tác song phương cùng có lợi.
Ngày 28/5, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã tiếp Đại sứ Mozambique đến trình quốc thư nhân dịp nhận nhiệm vụ công tác tại Việt Nam.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hoan nghênh ngài đại sứ lần đầu tiên nhận công tác tại Việt Nam, xem đây là sự kiện đánh dấu mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước.
Chủ tịch nước khẳng định mối quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai nước đã khởi nguồn từ sự ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau trong những năm kháng chiến trước đây và ngày càng được tăng cường hiệu quả trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.
![]() | ||
|
Đại sứ Gamilien Munguambe bày tỏ vinh dự là người đầu tiên được bổ nhiệm làm Đại sứ Mozambique tại Việt Nam; khẳng định hai bên có mối quan hệ truyền thống hết sức tốt đẹp và sự hiện diện của ngài Đại sứ tại Việt Nam chính là nhằm thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ giữa hai nước, hai dân tộc lên tầm cao mới.
Đại sứ cho rằng cùng với mối quan hệ chính trị tốt đẹp, hai bên cần thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế thương mại. Đây cũng là mục tiêu quan trọng của Đại sứ trong nhiệm kỳ công tác tại Việt Nam. Đại sứ đã chuyển thư của Tổng thống Mozambique tới Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, mời Chủ tịch nước sang thăm Mozambique trong thời gian tới.
Chào mừng Đại sứ Gruzia Mamuka Gamkrelidze nhận công tác tại Việt Nam, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhấn mạnh năm 2012 đánh dấu 20 năm quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Chủ tịch nước cảm ơn sự giúp đỡ của Gruzia trong những năm đấu tranh giành độc lập trước đây và tin tưởng hai nước sẽ có bước phát triển mạnh mẽ hơn trong thời gian tới.
Chủ tịch nước cũng gợi mở Đại sứ nên dành thời gian gặp gỡ các bộ, ngành và các doanh nghiệp Việt Nam nhằm có thêm thông tin, thúc đẩy hợp tác giữa hai nước, nhất là giáo dục, đào tạo, kinh tế, thương mại.
Đại sứ Mamuka Gamkrelidze bày tỏ vui mừng được bổ nhiệm làm đại sứ tại Việt Nam, bày tỏ ngưỡng mộ đối với sự tăng trưởng của Việt Nam trong những năm qua, một quốc gia phát triển năng động tại Đông Nam Á. Đại sứ khẳng định sẽ nỗ lực làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước; mong muốn nhận được sự giúp đỡ của Chủ tịch nước và các bộ, ngành của Việt Nam trong nhiệm kỳ công tác.
PV (VNP)
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn tấn dũng vừa yêu cầu lãnh đạo tỉnh Hưng Yên giải trình, báo cáo lại cụ thể quá trình cưỡng chế đất tại Văn Giang (Hưng Yên), trong đó có việc lực lượng cưỡng chế gây thương tích cho người dân và nhà báo.
Theo đó, Thủ tướng yêu cầu Lãnh đạo Hưng yên phải nói rõ những vấn đề có sai phạm trong vụ cưỡng chế, cá nhân nào sai phạm phải xử lý nghiêm.
Trước đó, tại hội nghị trực tuyến toàn quốc về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì ngày 2/5, ông Nguyễn Khắc Hào,phó chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên, đã có báo cáo về vụ cưỡng chế đất nông nghiệp ở Văn Giang. Trong báo cáo ông Hào khẳng định việc cưỡng chế đã thành công, đảm bảo an toàn về người và tài sản.
![]() | ||
|
Cụ thể, sau khi xảy ra vụ cưỡng chế Văn Giang (ngày 24/4), trên mạng internet xuất hiện clip hai người bị đánh trong vụ cưỡng chế. Hai nhà báo Nguyễn Ngọc Năm (42 tuổi), Trưởng phòng thời sự, chính trị, kinh tế (Trung tâm tin, VOV) và PV Hán Phi Long (33 tuổi) khẳng định, clip ghi lại cảnh hai người bị đánh trong vụ Văn Giang lan truyền trên mạng Internet phản ánh đúng những gì đã xảy, không có sự dàn dựng hay giả tạo nào.
Ngay sau đó vụ việc đã được lãnh đạo VOV phản ánh với Hội Nhà báo Việt Nam và lãnh đạo Hội đã gửi công văn yêu cầu huyện Văn Giang và tỉnh Hưng Yên có báo cáo về sự việc.
Chiều 9/5, ông Bùi Huy Thanh, Chánh văn phòng UBND tỉnh Hưng Yên kiêm người phát ngôn của UBND tỉnh cho rằng, chưa có bằng chứng hay nhân chứng gì có thể khẳng định hai nhà báo VOV chính là hai người bị đánh trong clip kia vì hình ảnh quay xa và mờ, không nhìn rõ mặt những người bị đánh.
Truy nhiên, ông Nguyễn Hoài Thu, Giám đốc Trung tâm tin (Đài Tiếng nói Việt Nam – VOV) đã phản ứng gay gắt sau phát ngôn này. Ông cho rằng, đòi hỏi trên của tỉnh Hưng Yên là bất khả thi. “Hai nhà báo là nhân vật trong clip chứ đâu phải là tác giả quay clip mà có được clip gốc. Đòi hỏi họ phải tìm được nhân chứng trong điều kiện vừa bị đánh hội đồng tới tấp cũng là không thể”, ông Thu nói.
Chiều 10/5, tại buổi làm việc với đại diện lãnh đạo và Đảng ủy Đài tiếng nói Việt Nam (VOV) cùng hai nhà báo bị hành hung trong vụ cưỡng chế tại Văn Giang hôm 24/4, ông Trần Huy Ngạn, Giám đốc Công an tỉnh Hưng Yên mong Ông Ngạn mong lãnh đạo VOV và hai nhà báo “thông cảm” vì sự phản hồi chậm trễ của Công an Hưng Yên, đồng thời khẳng định những hành động trong clip là sai phạm. Đồng thời, Giám đốc Công an tỉnh Hưng Yên cũng xác nhận, tại trụ sở Công an huyện Văn Giang hôm đó (24/4), ông có nhìn thấy nhà báo Hán Phi Long mặt mũi bị sưng tím. Ông Ngạn cam kết với lãnh đạo VOV “sẽ xử lý nghiêm những người vi phạm trong thời gian sớm nhất”.
Ngày 11/5, Đại tá Nguyễn Văn Minh, Phó Giám Công an tỉnh Hưng Yên đã ký giấy mời của Công an tỉnh Hưng Yên gửi lãnh đạo Trung tâm Tin cùng với 2 nhà báo Nguyễn Ngọc Năm, Trưởng phòng và nhà báo Hán Phi Long, phóng viên Phòng Phóng viên thời sự, chính trị, kinh tế – Trung tâm Tin đến làm việc vào 9h ngày 16/5 tại trụ sở Công an tỉnh Hưng Yên. Tuy nhiên, buổi làm việc này đã bị hoãn lại, không rõ lý do và thời gian tổ chức lại cuộc làm việc giữa các bên liên quan.
Sáng 24/4, UBND huyện Văn Giang đã thực hiện cưỡng chế từ khoảng 7h đến hơn 11h dưới sự chỉ đạo của Bí thư và Chủ tịch tỉnh Hưng Yên.Nguồn : http://baodatviet.vn/Home/chinhtrixahoi/Thu-tuong-yeu-cau-bao-cao-lai-vu-Van-Giang/20125/213178.datviet
Thông tin trên trang web của tỉnh mô tả, một ngày trước khi cưỡng chế, khoảng hơn 100 người dân dựng 2 lều bạt gần khu vực giải phóng mặt bằng. Sáng ngày 24/4, khoảng 300 người dân tập trung tại các điểm gần khu vực cưỡng chế. Sau 7h sáng, còn khoảng 200 người dân dùng cuốc, xẻng, dao, liềm, gậy gộc, gạch đá, chai xăng chống lại lực lượng làm nhiệm vụ cưỡng chế.
23 thg 5, 2012
Thay mặt Ban Cán sự Đảng Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trân trọng tiếp thu những ý kiến đóng góp của các đồng chí nguyên lãnh đạo Chính phủ, thành viên Chính phủ qua các thời kỳ, đây là cơ sở quan trọng để Ban Cán sự Đảng Chính phủ nghiêm túc kiểm điểm và tự phê bình trên tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI).
![]() | ||
|
23 thg 5, 2012 0
Ngày 16/5, tại Hà Nội, Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị toàn quốc sơ kết 1 năm thực hiện Chỉ thị số 03- CT/TW ngày 15/4/2011 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lê Hồng Anh; Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Đinh Thế Huynh chủ trì hội nghị.
![]() | ||
|
Trước giờ khai mạc, các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước cùng các đại biểu dự hội nghị đã vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tại Hội nghị, các đại biểu đã tập trung thảo luận, nêu bật những mặt được, chưa được, phân tích nguyên nhân, giới thiệu những cách làm hay, những kinh nghiệm, sáng kiến tốt, đề xuất, bổ sung những biện pháp thiết thực, cụ thể nhằm tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị trong thời gian tới.
Các đại biểu nhấn mạnh, cần đưa việc tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thành việc làm thường xuyên, liên tục, lâu dài, trong đó có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với tình hình thực tế và nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị, địa phương.
Phát biểu kết luận Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân và quân ta tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và chuẩn bị kỷ niệm 122 năm ngày sinh của Bác, việc tổ chức Hội nghị sơ kết một năm thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ chính trị là việc làm có ý nghĩa vô cùng quan trọng, để mỗi tổ chức, cán bộ, đảng viên tự kiểm điểm, soi lại mình trong việc tu dưỡng, rèn luyện, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Tổng Bí thư hoan nghênh, thời gian qua các ngành, các cấp đã làm được nhiều việc, có nhiều tìm tòi sáng tạo, nhiều sáng kiến nhằm tích cực triển khai Chỉ thị 03. Kết quả thực hiện thể hiện rõ trong nhận thức và hành động, các cấp, các ngành đã quán triệt ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tiếp tục học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, mà trọng tâm là đẩy mạnh việc làm theo.
Các nội dung học tập và làm theo Bác đã dần được đưa vào sinh hoạt định kỳ của chi bộ, cơ quan, đơn vị, gắn với nhiệm vụ chính trị và chức trách nhiệm vụ của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, nằm trong các chương trình kế hoạch, phong trào thi đua đang được các địa phương, cơ quan, đơn vị triển khai; đã có những chuyển biến tích cực trong việc rèn luyện đạo đức, giữ gìn lối sống của cán bộ, đảng viên và trong thái độ ứng xử đối với nhân dân; tập trung giải quyết dứt điểm những vấn đề nổi cộm ở địa phương, ngành, đơn vị mình, mang lại kết quả bước đầu và cho kinh nghiệm để tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị.
Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện Chỉ thị 03 nhìn chung còn chậm. Một số cơ quan, ban, ngành, đoàn thể Trung ương chưa hoàn thành đúng tiến độ các nhiệm cụ thể được giao trong Kế hoạch của Ban Bí thư, ảnh hưởng đến kết quả việc triển khai thực hiện Chỉ thị.
Trong tổ chức thực hiện nội dung Chỉ thị, nhiều việc còn lúng túng, nhất là trong các hoạt động cụ thể ở địa phương và cơ sở. Nhìn chung, việc triển khai thực hiện Chỉ thị chưa tạo được sự hồ hởi, phấn khởi, lôi cuốn đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân tích cực, tự giác tham gia. Một số nơi, việc học tập và làm theo gương Bác mới chỉ dừng lại ở các hoạt động mang tính hình thức, chưa có các nội dung thiết thực, thiếu sức thuyết phục.
Tổng Bí thư yêu cầu, sau Hội nghị này, các cấp, các ngành, địa phương cần tiếp tục triển khai thực hiện các nội dung theo Chỉ thị của Bộ Chính trị và Kế hoạch của Ban Bí thư.
Để bảo đảm việc thực hiện Chỉ thị 03 ngày càng đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả hơn, cần có nhiều điều kiện, trong đó pháp luật là tối thượng, nhưng đạo đức nhân văn bền vững hơn, pháp trị nhưng còn có đức trị. Vai trò của cấp ủy Đảng, tổ chức Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức hướng dẫn là rất quan trọng.
Tổng Bí thư nhấn mạnh, cần nhận thức sâu sắc hơn nữa ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đẩy mạnh lên một bước việc thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị thông qua các chương trình kế hoạch hành động cụ thể, các phong trào thi đua thiết thực, nhân rộng các điển hình tiên tiến, các tấm gương người tốt việc tốt. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để mỗi người tốt hơn, trong sáng hơn, để dân tộc ta mãi mãi trường tồn.
Theo (TTXVN)
Thực hiện Kế hoạch số 08-KH/TW, ngày 12/3/2012 của Bộ Chính trị, ngày 18/5, tại TP. Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị đã tổ chức Hội nghị phổ biến mục đích, yêu cầu, nội dung góp ý kiểm điểm tập thể, cá nhân Bộ Chính trị, Ban Bí thư theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) tới các đồng chí nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng.
Các đồng chí Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư; đồng chí Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì hội nghị.
![]() | ||
|
Tại hội nghị, đồng chí Lê Hồng Anh đã làm rõ thêm những nội dung quan trọng của Nghị quyết Trung ương 4, nêu bật các nhóm giải pháp để tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết này.
Theo đồng chí Lê Hồng Anh, trên cơ sở kiểm điểm của tập thể, cá nhân, từ đó xác định được những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của những hạn chế yếu kém trong công tác xây dựng Đảng.
Việc tổ chức kiểm điểm phải được tiến hành nghiêm túc, thẳng thắn, đúng yêu cầu, nội dung, thời gian mà Trung ương và Bộ Chính trị đã đề ra. Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy, đảng viên cấp trên gương mẫu kiểm điểm trước để nêu gương, cán bộ, đảng viên cấp dưới thực hiện theo.
Đồng chí Lê Hồng Anh cũng đã phổ biến đến các đồng chí tham dự mục đích, yêu cầu, nội dung việc góp ý kiến kiểm điểm tập thể, cá nhân Bộ Chính trị, Ban Bí thư theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
Theo (ĐCS)
"Barack Obama không mong muốn bóng ma một cuộc chiến tranh lạnh mới, nhưng quả quyết đáp trả bất kỳ tham vọng nào của Trung Quốc để bá chủ ở châu Á Thái Bình Dương”.
Mỹ dường như đang phát đi tín hiệu phức tạp với châu Á. Một mặt, họ trấn an một trong những đồng minh thân cận nhất ở khu vực - Philippines - rằng họ sẵn sàng bảo vệ Philippines khỏi “bất kỳ vụ tấn công nào từ nước thứ ba”.
Mặt khác, họ tuyên bố sẽ ở vị trí trung lập trong cuộc đối đầu Manila - Bắc Kinh ở Biển Đông - cuộc đối đầu có khả năng châm ngòi cho xung đột tại châu Á.
"Không chỉ chính phủ Trung Quốc không đồng ý, mà người dân và quân đội Trung Quốc cũng không chấp nhận”, bài bình luận viết. Như để minh chứng, năm tàu của hạm đội Nam hải thuộc hải quân Trung Quốc gồm hai tàu khu trục trang bị tên lửa dẫn đường đang hướng tới Biển Đông với thời gian triển khai hai tháng. Theo Nhật báo Trung Quốc, “để bảo vệ tốt hơn các quyền hàng hải của Trung Quốc, 36 tàu tuần tra khác sẽ tham gia hạm đội hải giám”.
Quan điểm có vẻ “nước đôi” của Mỹ ở Biển Đông đã bị Philippines và một số thành viên khác của ASEAN chỉ trích. Khi đụng độ giữa Manila và Bắc Kinh bước sang tháng thứ hai, mọi chú ý giờ đây tập trung vào việc Mỹ sẽ đóng vai trò thế nào trong cuộc tranh chấp ngày một căng thẳng này ở Biển Đông.
Tại cuộc họp "2+2" chưa từng có trong tiền lệ với Ngoại trưởng Philippines Alberto del Rosario và Bộ trưởng Quốc phòng Voltaire Gazmin ở Washington hồi đầu tháng, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton và lãnh đạo Lầu Năm Góc Leon Panetta khẳng định, Mỹ sẽ duy trì “quan điểm trung lập” trong cuộc tranh chấp chủ quyền.
Tuy nhiên, cũng trong cuộc gặp tương tự, bà Clinton và ông Panetta lại tuyên bố rõ ràng rằng, Mỹ cam kết tuân thủ Hiệp ước Phòng thủ chung Philippines - Mỹ năm 1951. Hiệp ước quy định mỗi quốc gia sẽ giúp bên còn lại phòng thủ trong tình huống bị một nước thứ ba tấn công.
Như vậy, Mỹ có chiến lược nào ở Biển Đông?
Chiến lược của Mỹ có thể tổng quát như sau: Hy vọng điều tốt nhất nhưng chuẩn bị cho sự xấu nhất.
Như tác giả Simon Tisdall của Guardian mô tả: “Barack Obama không mong muốn bóng ma một cuộc chiến tranh lạnh mới, nhưng quả quyết đáp trả bất kỳ tham vọng nào của Trung Quốc để bá chủ ở châu Á Thái Bình Dương”.
Để làm được điều này, bước đầu tiên trong chiến lược Biển Đông của Mỹ là xây dựng các khả năng phòng thủ cho Philippines và những thành viên khác của ASEAN, giúp họ cải thiện khả năng tự bảo vệ bờ biển của mình.
George Amurao của Đại học Mahidol ở Bangkok nói: "Sự cởi mở của Washington với những mong muốn quân sự của Manila là để tạo niềm tin những bên tuyên bố chủ quyền nhỏ hơn nhưng được trang bị vũ khí tốt thì có thể giữ chân Trung Quốc. Trong tuyên bố chính thức đưa ra từ Philippines hôm 3/5, chính phủ Mỹ đã nhất trí tăng gấp ba viện trợ quân sự nước ngoài cho Philippines năm 2012".
Nằm trong chính sách ngoại giao “xoay trục” về châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ cũng đang vươn xa hơn ngoài ASEAN và củng cố hệ thống liên minh với các nước chủ chốt khác trong khu vực như Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ.
Để đối phó với sức mạnh trỗi dậy của Trung Quốc, chính quyền Obama tuyên bố thiết lập sự hiện diện thường trực của quân đội Mỹ tại căn cứ Darwin, Australia. Giữa lúc cắt giảm chi tiêu quốc phòng, chương trình hợp tác phòng thủ tên lửa đạn đạo Mỹ - Nhật tiến triển tốt và sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Hàn Quốc sẽ được tăng cường. Chính mong muốn kiềm chế các tham vọng của Trung Quốc đã dẫn tới nỗ lực tái lập quan hệ giữa Washington và New Delhi gần đây.
Cuối cùng, để bảo vệ một trong những tuyến đường biển nhộn nhịp nhất thế giới, chiến lược châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ còn bao gồm sự hiện diện mạnh mẽ hơn ở Biển Đông. "Khu vực này ngày càng quan trọng hơn với tương lai kinh tế và an ninh quốc gia Mỹ”, ông Panetta khẳng định.
Trong khi một cuộc đối đầu Trung - Mỹ ở Biển Đông chưa chắc xảy ra, thì chiến lược Biển Đông mới của Mỹ đòi hỏi sự cân bằng tinh tế. Vừa kiềm chế tham vọng lãnh thổ ngày một lớn của Trung Quốc ở Biển Đông, nhưng lại vừa tránh được cho Mỹ sự đối đầu trực tiếp với Trung Quốc.
THÁI AN (VIETNAMNET)
Vì sao vậy, khi gần đây Trung Quốc luôn có những hành động gây bức xúc đối với các nước láng giềng trên Biển Đông?
Ngoài chuyện đưa ra vùng chủ quyền "đường lưỡi bò” vô lý, "liếm” hết vùng biển phía Nam Trung Quốc cho đến tận các vùng biển của Việt Nam, Thái Lan, Malaysia, Philippines là liên tiếp các vụ việc bắt giữ tàu đánh cá của Việt Nam trên các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam; thành lập cơ quan du lịch Hải Nam để đẩy mạnh xúc tiến phát triển du lịch khu vực Trường Sa; đưa tàu Ngư chính, mà thực chất là tàu quân sự đi "hộ tống” tàu cá Trung Quốc vào đánh bắt tại vùng biển các nước lân cận, đưa giàn khoan dầu khủng vào khu vực Biển Đông và gần đây lại tuyên bố cấm đánh bắt cá trên vùng phía Bắc Biển Đông thuộc chủ quyền của Việt Nam.
![]() | ||
|
Việt Nam ta từ xưa đến nay luôn thể hiện mong muốn hòa bình, hữu nghị đối với nhân dân các nước láng giềng. Ngay cả với kẻ thù xâm lược chúng ta vẫn luôn có lòng nhân ái, bao dung. Lê Lợi khi đánh thắng giặc Minh còn "cấp ngựa xe, lương thực cho về”. Tù binh Pháp thua trận ở Điện Biên Phủ, giặc lái Mỹ bị bắt ở miền Bắc trong chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ đều được đối xử tử tế, được bảo đảm cuộc sống trong khi người dân phải chia nhau từng bát gạo, mớ rau. Những năm gần đây, ngư dân Trung Quốc vào đánh bắt cá tại vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam đều được nhắc nhở để khỏi vi phạm, chúng ta chưa bao giờ gây khó dễ cho họ. Nếu chẳng may họ gặp tai nạn, bão tố đều được cứu nạn và chúng ta nhanh chóng tạo điều kiện giúp họ được sớm về nước. Vậy sao, Trung Quốc vẫn cứ xâm lấn chủ quyền biển đảo của Việt Nam, liên tục bắt tàu cá của ngư dân Việt Nam và mỗi lần như vậy đều tịch thu hết phương tiện, cố triệt hạ con đường làm ăn, sinh sống của họ? Vậy sao Trung Quốc đưa tàu Ngư chính vào cắt phá cáp tàu thăm dò biển và xua đuổi, đe dọa, bắt bớ tàu cá của Việt Nam... Phải chăng, chúng ta càng nhân nhượng thì Trung Quốc càng lấn tới, phớt lờ những thiện chí của chúng ta, dù tình đoàn kết hợp tác Việt Nam - Trung Quốc từ xưa đến nay vẫn đang được Chính phủ và nhân dân Việt Nam coi trọng và không ngừng xây dựng, vun đắp
Việt Nam có hơn 3.000 km bờ biển, kèm theo đó là một vùng đảo, lãnh hải chủ quyền, quyền tài phán rộng lớn theo luật pháp và công ước quốc tế xác nhận, qui định. Việt Nam được xác định là một quốc gia biển nên sống về biển là một điều hiển nhiên và chúng ta cũng đã có Chiến lược phát triển kinh tế biển. Như vậy, biển được coi là "ruộng nhà, vườn nhà, sân nhà” của mình. Phải quyết tâm và quyết liệt bảo vệ Biển của mình. Thực tế hiện nay cho thấy, để bảo vệ chủ quyền biển, đảo của chúng ta, nhất thiết phải từng bước củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng quân đội cách mạng, chính qui, tinh nhuệ từng bước hiện đại. Quan điểm quân sự, quốc phòng của Đảng ta, Nhà nước ta đã xác định, mạnh về quân sự và quốc phòng là cơ sở quan trọng để giữ vững an ninh chính trị, ngăn ngừa chiến tranh xâm lược và nếu tình huống xấu xảy ra sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu và thủ đoạn chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Do đó, tăng cường sức mạnh quốc phòng, quân sự nói chung, sức mạnh quân sự trên biển nói riêng không nhằm vào để chống một nước cụ thể mà là nhằm bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền biên giới, hải đảo quốc gia, trực tiếp giữ vững an ninh vùng biển chủ quyền, bảo vệ ngư dân, chống hải tặc bảo vệ một trong những tuyến vận tải đường biển quan trọng của quốc tế...
Lịch sử hàng nghìn năm ông cha ta chống ngoại xâm đã chỉ rõ, kẻ thù nào xâm lược nước ta không sớm thì muộn cũng phải thất bại dù chúng có tiềm năng kinh tế, sức mạnh quân sự với lực lượng quân đội, vũ khí, trang thiết bị quân sự hiện đại lớn hơn, vượt trội hơn Việt Nam nhiều lần. Sức mạnh chống ngoại xâm đó, trước hết bắt nguồn từ tình yêu đất nước, lòng tự tôn dân tộc, truyền thống hào hùng chống ngoại xâm của ông cha ta và cụ thể là tinh thần "Đánh cho sạch không kình ngạc”, "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, sẵn sàng hy sinh tính mạng mình cho đất nước, cho Tổ quốc. "Sói biển” Mai Phụng Lưu đã bao lần bị Trung Quốc bắt giữ tàu thuyền, ngư cụ, bao nhiêu lần phải nợ nần để sắm lại tàu thuyền, ngư cụ vẫn quyết tâm, sẵn sàng ra khơi, bám biển, bám vùng lãnh hải của Tổ quốc. Người chiến sĩ điện đài trên nhà giàn DK1, trước bão tố, phong ba, khi nhà giàn đổ, biết sẽ hy sinh vẫn bình tĩnh đến bình thản gửi lời nhắn cuối cùng về đất liền, đến đồng đội "Nhà giàn đổ rồi, em đi đây, xin chào các anh ở lại”. Ý chí đó, tinh thần đó là sức mạnh Việt Nam, khó đất nước nào có và không có một kẻ thù xâm lược nào khuất phục được.
Và tất nhiên, đi kèm với sức mạnh chính trị, tinh thần là sức mạnh của vũ khí, trang bị quân sự. Sau chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược thành công, Việt Nam được dư luận phương Tây đánh giá có tiềm lực quân sự, quốc phòng mạnh trong khu vực Đông Nam Á. Sức mạnh đó không ngừng được tăng cường, củng cố khi chúng ta đã tích cực nghiên cứu đưa những tiến bộ của khoa học - công nghệ tiên tiến vào để duy trì, cải tiến, phát triển vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện có, đáp ứng kịp với tác chiến trong chiến tranh hiện đại. Đồng thời, trong điều kiện có thể tiếp tục mua sắm thêm nhiều loại vũ khí, trang bị mới. Nhân dân ta vui mừng khi quân đội vừa qua được trang bị thêm máy bay Su 26, Su 30, tàu chiến, tàu ngầm hiện đại phát triển công nghệ thông tin trên biển, cũng nhiều vũ khí khí tài hiện đại khác.
Ngoài lực lượng hải quân đang từng bước phát triển hiện đại, chúng ta đã thành lập và phát triển lực lượng cảnh sát biển. Thành tích của lực lượng này đã chứng minh chủ trương đúng đắn của Đảng ta, quân đội ta trong chiến lược phát triển kinh tế biển, bảo vệ an ninh trên biển, hỗ trợ, giúp đỡ ngư dân đánh bắt thủy hải sản trên biển, nhất là trên các vùng biển xa, nơi quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. Cả nước chung tay từng bước phát triển các đảo lớn, cụm đảo Trường Sa trở thành các điểm hậu cần nghề cá. Còn tại các địa phương ven biển nhiều nơi đã thành lập các tập đoàn đánh cá, đầu tư đóng mới nhiều tàu thuyền có công suất lớn để đi biển xa, đánh bắt dài ngày trên biển.
Phát triển kinh tế biển và yêu cầu bảo vệ vững chắc vùng biển đảo của Tổ quốc đòi hỏi tiềm lực quân sự, quốc phòng trên biển của nước ta càng phải tiếp tục phát triển mạnh hơn nữa. Do vậy, để "sân nhà” không bị đe dọa, thậm chí bị lấn chiếm, ngoài sức mạnh về chính nghĩa, về ý chí và tinh thần... với những cuộc đấu tranh chính trị, ngoại giao... trên chính trường quốc tế, chúng ta không thể chậm trễ trong việc tăng cường sức mạnh quân sự, đặc biệt là tiềm lực về vũ khí, trang bị cho bảo vệ biển đảo. Ta cần có nhiều hơn tàu chiến, tàu hậu cần, máy bay, tàu ngầm hiện đại, tên lửa đất đối biển... Lực lượng cứu hộ, cứu nạn trên biển cần nhiều hơn những loại tàu chịu được bão tố. Lực lượng cảnh sát biển cần có tàu lớn hơn để có thể vươn tới những vùng biển xa. Và lực lượng dân quân biển phải được củng cố, phát triển mạnh hơn nữa. Đó là những yêu cầu, nhu cầu chính đáng của chúng ta.
MẪN HÀ ANH (ĐẠI ĐOÀN KẾT)